Thị trường gạo – 2 bức tranh tương phản ở Việt Nam

372
thị trường xuất khẩu gạo

Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu gạo gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng vô cùng phức tạp của dịch Covid-19. Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương đã chủ động có nhiều giải pháp. Nhằm đảm bảo phòng chống dịch bệnh, an ninh lương thực, tháo gỡ khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu chung, nhất là xuất khẩu gạo. Là một trong số những cường quốc xuất khẩu gạo của thế giới. Thế nhưng thị trường gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Vậy tại sao lại có sự nghịch lí này? Hãy để Dia oc Kien Giang giúp bạn  trả lời câu hỏi này nhé!

Sự nghịch lí của thị trường gạo xuất khẩu ở Việt Nam

Sự phát triển trong thị trường gạo xuất khẩu

Sự phát triển trong thị trường gạo xuất khẩu

Trong quá trình tiến tới ngôi vị xuất khẩu gạo số 2, số 3 thế giới, chúng ta đã đặt mình vào hai trạng thái đối lập nhau hoàn toàn ở hai khu vực thị trường gạo này. Trước hết, đối với các quốc gia thuộc RCEP đang nhập khẩu bình quân gần 7,6 triệu tấn gạo/năm trong 10 năm trở lại đây, chiếm tới 1/5 “rổ gạo nhập khẩu” của thế giới. Bình quân mỗi năm chúng ta xuất khẩu sang đây 3,91 triệu tấn, chiếm tới 51,6% “rổ gạo xuất khẩu” của chúng ta.

Trong khi đó, đối với các quốc gia thuộc EU và Anh, sau đây gọi là EU – 28. Tuy chỉ chiếm chưa bằng một nửa nhập khẩu của RCEP trong cùng kỳ. Nhưng xuất khẩu của chúng ta sang 6 quốc gia chủ yếu thuộc EU – 28 (gồm Anh, Đức, Pháp, Hà lan, Italia và Tây ban nha) lại không đáng kể; bình quân chỉ đạt 19 nghìn tấn/năm.

Nếu quan sát nhập khẩu gạo của 6 quốc gia chủ yếu thuộc EU – 28 này. Tuy họ đều lựa chọn rất nhiều thị trường khác nhau. Nhưng vẫn nhập khẩu từ 4 thị trường chủ yếu, lần lượt là Thái lan, Pakistan, Ấn độ và Campuchia. Với tổng cộng là 751 nghìn tấn/năm trong tổng nhập khẩu 2,23 triệu tấn/năm của họ.

Phát triển nhưng không mang lại giá trị cao

Như vậy, tuy là cường quốc xuất khẩu gạo thế giới. Thế nhưng chúng ta chỉ là “nhược tiểu” khi chinh phục thị trường EU – 28. Không những vậy, điểm chung cũng không kém quan trọng trong xuất khẩu gạo vào cả hai khu vực thị trường này của chúng ta là giá quá “bèo”. Thống kê của ITC cho thấy, trong khi giá của 4 quốc gia chủ yếu xuất khẩu vào khu vực thị trường này bình quân trong 10 năm qua đạt 1.021 USD/tấn. Còn của chúng ta chỉ đạt 613 USD/tấn, thấp hơn 45,3%,… Với các FTA thế hệ mới, xuất khẩu gạo thơm chất lượng cao vào thị trường Anh được miễn thuế nhập khẩu theo UKVFTA đã được một doanh nghiệp thực hiện.

Những bất cập trong thị trường gạo xuất khẩu

Trong điều kiện như vậy, với các FTA thế hệ mới. Xuất khẩu gạo thơm chất lượng cao vào thị trường Anh được miễn thuế nhập khẩu theo UKVFTA đã được một doanh nghiệp thực hiện. Và có lẽ đây là cơ hội sáng nhất. Bởi vì, đây chính là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất trong EU – 28. Còn hạn ngạch 80 nghìn tấn gạo của EU rõ ràng là rất khiêm tốn so với “rổ gạo xuất khẩu” của chúng ta. Tuy nhiên, điều còn đáng ngại hơn chính là nằm ở mức giá quá thấp của chúng ta so với của các đối thủ cạnh tranh như nói trên. Thực tế đó chắc chắn bắt nguồn từ hai nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Một là

Chúng ta chưa có giống lúa cho giá gạo cao như các đối thủ cạnh tranh. Bởi lẽ, tuy chúng ta có ST25 mới giành được danh hiệu gạo ngon nhất thế giới. Và nó đã phải trải qua hàng chục năm mới lai tạo được. Thế nhưng thực chất đó là gạo đặc sản của vùng đất lúa – tôm rất hữu hạn. Trong khi Thái lan có Thai Hom Mali, Pakistan có Basmati, Ấn độ có Basmoti,… rất nổi tiếng với sản lượng rất lớn. Bên cạnh đó, giống lúa đặc sản của chúng ta chỉ thích hợp ở những vùng đặc biệt rất nhỏ. Còn khi nó được chuyển sang trồng trọt ở các vùng khác thì không còn là chính nó nữa.

Hai là

Cửa ải không dễ vượt qua là hình thành các chuỗi liên kết bền vững. Và chúng sẽ không ngoài mục đích xây dựng những thương hiệu lúa gạo đủ uy tín. Việc gạo của chúng ta luôn luôn mới, giá lại rẻ; nhưng không được những thị trường coi trọng chất lượng hay thương hiệu là điều kiện đầu tiên để xem xét. Và lý do chủ yếu vẫn là “vô danh” hiện nay.

Đẩy mạnh xuất khẩu với giá cao của thị trường gạo

xuất khẩu gạo với giá cao

Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA). Trong năm 2021, sản lượng gạo nhập khẩu toàn cầu ước đạt 44,79 triệu tấn; tăng 1% so với năm 2020.

Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 608.768 tấn gạo các loại trong gần 2 tháng đầu năm. Đạt hơn 336,18 triệu USD, giảm khoảng 34% về khối lượng và 22% về kim ngạch. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo từ đầu năm đến nay lại tăng về giá. Trung bình 551,7 USD/tấn, tăng 3,4% so với tháng 12/2020 và tăng 15,4% so với tháng 1/2020. Theo nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo, điều này cho thấy những tín hiệu lạc quan về xuất khẩu gạo trong năm 2021. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp.

Trong năm 2020 cũng như tháng đầu năm 2021 thì giá gạo không chỉ của Việt Nam mà cả của Thái Lan, Ấn Độ cũng đều có sự gia tăng cao. Ở đây 3 nước đều là những nước trung tâm của thị trường gạo xuất khẩu. Về phía Việt Nam, trong thời gian qua cũng đã có sự chủ động sản xuất các loại gạo có chất lượng, cho giá trị gia tăng cao. Ví dụ như: gạo thơm của Việt Nam đã chiếm 26,3% trong tỷ trọng tổng lượng gạo xuất khẩu năm 2020 (hay gạo japonica chiếm 3,4%, gạo nếp chiếm 8,8%, gạo lứt 1,7%, gạo trắng cao cấp 3,7%.v.v),… Điều này đã góp phần nâng cao giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua.

Nguồn: cafef.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *